Terminalia and Whomping Willow

Bàng và Liễu roi.

Câu chuyện này không phải viết dành riêng cho em. Không phải đâu.

Chỉ là nếu không có em thì chị cũng không thể có đủ quyết tâm để hoàn thành nó.

Rest In Peace, little girl…

#120415

 photo-33

Không.

   Những ngày đầu tháng tư.

   Hai ngày trước, nếu nhìn lên bầu trời vào lưng chừng chiều, ta sẽ thấy màu hồng nhẹ nhàng bắt đầu từ tít phía xa chân trời rồi cứ loang lên cao mãi cho đến khi chìm vào chất ice blue – có một cô bạn của tôi thích cái hòa sắc pastel này vô cùng. Nhưng giờ đây, có căng mắt ra nhìn thì ta cũng sẽ chỉ thấy một màu xám xịt. Lạnh như xi măng.

   Cái nắng vàng hươm dịu dàng nhàn nhạt bốc hơi trong những cơn mưa rào. Mưa mùa này đột ngột như cái cách mà chúng ta hắt xì vậy. Ta ngứa mũi, ta hít xốc lên một cái. Và thế là trời mưa.

   Có những cơn mưa cũng hết nhanh như khi ta nhỡ hít phải chút chút hạt tiêu, nhưng cũng có những lần kéo dài như khi ai đó bị cảm lâu ngày.

   – Rét nàng Bân năm nay còn nhẹ lắm, mọi năm kinh khủng hơn nhiều. – Một cô bạn nào đó của tôi vừa xoa xoa hai bàn tay vào nhau vừa nói thế.

   Tôi cũng chỉ biết cười khổ khi vừa trùm chăn ngủ suốt mười bảy tiếng vừa sốt hầm hập mà nghĩ tới câu ấy. Thật tủi thân khi ta chưa kịp khỏi ốm từ lúc trời mới chuyển từ đông sang xuân, lại vinh quang ngã xuống thêm lần nữa khi hơi lạnh thu chút binh lực tàn tạ để đánh ụp vào thành phố này một lần cuối cùng.

Một.

   Mẹ không muốn cho tôi đi bệnh viện. Đối với những người theo Đạo lâu năm như chúng tôi, sự chúc phước và chữa lành từ nơi Chúa còn hiệu quả hơn nhiều so với thuốc thang, tiêm chích, và những người mặc áo blouse trắng. Vả lại, tôi có một sự sợ hãi không được thầm kín cho lắm với máu, hay những vết nhầy nhầy đỏ đỏ khi ta siêu âm vòm họng.

   Nói theo một cách nào đó, tôi không phải một con chiên chuẩn mực nhất mà Chúa có thể có. Ý tôi là, tôi vẫn đi nhà thờ vào ngày Chủ nhật, vẫn đọc Kinh thánh, nhưng không được thường xuyên như mọi người. Mối liên kết giữa tôi với Chúa chỉ sáng lên vào những lúc tôi co mình trên giường như một đứa trẻ, rì rầm những lời cầu nguyện mà không ai nghe thấy, đọc bài “Our Father” hay ngâm nga hát “The Prayer”.

Hai.

   Tối hôm ấy, tôi nhớ rằng, khi tôi ôm bụng nằm thu lu trên giường thì nghe thấy em.

   Nghe thấy tiếng hát của em.

 

   I pray you’ll be our eyes, and watch us where we go

   And help us to be wise, in times when we don’t know

   Let this be our prayer, when we lose our way

   Lead us to a place, guide us with your grace

   To a place where we’ll be safe.

 

   La luce che tu dai,

   I pray we’ll find your light

   Nel cuore restera,

   And hold it in our hearts

   A ricordarci che,

   When stars go out each night

   L’eterna stella sei…

   Đương nhiên là em hát không hay như Celine Dion, giọng em nhỏ, khàn và những âm sắc vụn vỡ, tuyệt vọng và đau đớn. Nó lùa vào trong tiếng chương trình dự báo thời tiết, trong mùi cháo tía tô mẹ nấu cho bữa tối, trong những cơn ho đến thắt ruột của tôi.

   Tôi rì rầm như một thói quen:

   – Our Father in Heaven…

   Tiếng hát từ từ ngừng lại. Nhưng những vệt gió vẫn để lại nơi chúng từng đi qua vài hạt bụi xơ xác.

Ba.

   Chẳng bao lâu sau, tôi biết tôi và em học cùng trường.

   Ai đó sẽ hỏi rằng, tại sao tôi lại biết em là em. Tôi cũng không trả lời được, nhưng chẳng phải có biết bao nhiêu thứ người ta chẳng biết tại sao nhưng vẫn tin vào nó đấy thôi? Bí ẩn và kỳ diệu, ấy mới là những gì Chúa thường làm.

   Tâm lý con người rất kỳ lạ, ta dễ dàng có cảm tình với một người nào đó hơn một người nào đó khác, chỉ vì ta nhận ra rằng họ giống chúng ta ở đâu đấy rất gần. Chúng ta dễ dàng cảm thông, dễ suy nghĩ sâu sắc và dễ thấy mất mát hơn với nỗi đau của một người khi ta tin rằng, giữa ta và họ có một mối liên hệ nào đó, dẫu mờ nhạt, nhưng không thể phủ nhận.

   Và bây giờ, giữa tôi và em, đó là màu áo xanh thiên thanh. Màu của bầu trời. Màu của nỗi nhớ.

   Tôi chưa đến trường, nhưng mạng thông tin truyền thông bây giờ chẳng có gì không lan truyền được. Mọi người bảo, em bị tai nạn giao thông.

   Một sinh mệnh, chỉ trong vài phút ngắn ngủi ấy thôi, cứ như thế mà tan vào cát bụi giữa trời đất.

Bốn.

    Em có muốn nghe bài “Our Father” không?

   “Our Father” là trích đoạn trong sách Matthew 6:9-13, bài cầu nguyện duy nhất mà tôi thuộc.

   Tôi theo đạo Tin Lành trong một nhà thờ nho nhỏ cách nội thành không xa. Một cậu bạn theo Thiên Chúa Giáo kể với tôi rằng, cậu ấy phải đọc chừng ba bài kinh mỗi ngày và nhiều gấp đôi vào ngày lễ, mà hầu như bài nào cũng đâu đó gần một tiếng. Nhưng trong đó, vẫn luôn có “Our Father”.

   Từ khi học Tin, tôi bắt đầu tin rằng, cả thế giới này là một sơ đồ dạng cấu trúc dữ liệu hình cây với hàng tỉ tỉ nút lá, bao gồm cả những phạm trù cách nhau rất xa về bản chất như tôn giáo và vật lý lượng tử. Lần theo các nhánh cây ngược lên trên, hoặc thậm chí thi thoảng đi theo vài nhánh cung ngược, chúng ta sẽ biết được đâu là nơi chúng giao nhau. Hay nói cách khác, là điểm tương đồng gần nhất của chúng.

   Và “Our Father” chính là điểm tương đồng của mọi tôn giáo tôn thờ Chúa từ xưa tới nay.

   Rồi như bao người nhàm chán ở trong nhà cả ngày để ôm bụng ho khù khụ khác, tôi bắt đầu suy nghĩ tới một vấn đề triết học vô cùng cao siêu. Đó là, điểm tương đồng của chúng ta, của tất cả chúng ta, ngoại trừ cái hình dáng và tên gọi “con người” này, là gì?

   Tôi chưa thử, nhưng biết chắc rằng câu trả lời có thể dễ dàng tìm thấy trên Google, và càng chắc hơn nữa rằng nó không phải thứ mà tôi tìm kiếm. Bởi vì đáp án của mỗi chúng ta đều bất đồng, đáp án của một đứa trẻ kỳ lạ và tò mò hẳn là khác biệt so với một cụ già chín mươi tuổi.

   Và làm sao mà tôi biết được đâu là câu trả lời của mình?

   Tôi không biết. Hãy hỏi Chúa.

Năm.

   Đại khái là đến một tầm tuổi nào đó, mỗi ngày bạn sẽ tự ngẫm ra một chân lý của riêng mình mà cứ tưởng một vĩ nhân nào đó đã từng nói, để rồi đến ngày tiếp theo lại quên sạch sành sanh.

   Nhưng lại có những điều mà ta chẳng thể quên nổi.

   Chẳng hạn như, khi ốm, tôi nhận ra gia đình mình quan trọng đến như thế nào. Và rằng họ quan tâm đến tôi nhiều ra sao.

   Tôi không nhớ bao lâu rồi mình chưa ôm mẹ. Có lẽ là năm năm, mà cũng có thể là mười năm. Nó chỉ đơn giản là một truyền thống không bày tỏ tình cảm trực tiếp hơi kỳ lạ. Nhưng như thế không có nghĩa là chúng tôi không có điều đó. Thật ra, có lẽ ngoài tôi, mọi người trong nhà đều giàu tình cảm cả.

   Mấy ngày nay mẹ khó ngủ, vì tôi cũng thế. Mấy lần mẹ vén rèm, sờ trán tôi, thở phào vì tôi không sốt trở lại, xịt thuốc nhỏ mũi cho tôi, đắp chăn rồi lại trở ra. Mẹ làm mọi việc ấy trong ánh sáng nhàn nhạt từ phòng khách hắt vào, đơn giản vì đứa con gái khó tính khó chiều là tôi không thể chịu được ánh sáng mạnh.

   Em trai tôi là một đứa trẻ mà những câu chuyện bất hủ về nó thì gần như không tài nào nhớ nổi và kể hết trong một lúc được, và trên một số phương diện thì nó khá giống tôi, ví dụ như những sự ghét bỏ cực đoan, đặc biệt là với chè và cháo. Thế nhưng trong suốt những ngày mà tôi chỉ được động vào các loại thức ăn gần chất lỏng, nó cũng ngậm đắng nuốt cay mà ăn cùng tôi mà chỉ phàn nàn tí chút rằng “Tại chị hết!” khi vét những thìa cuối cùng.

   Bà ngoại, chỉ trong một buổi chiều chủ nhật, cũng đã tìm được chừng mười lăm loại thuốc chữa ho viêm xoang ngứa họng viêm phế quản các kiểu giấu ở khắp nhà, và suýt chút nữa thì tống cả vào miệng tôi. Bà vỗ lưng dỗ tôi uống thuốc như những ngày thơ bé, như cái cách bà ru tôi ngủ những trưa hè mà nắng gắt quá nên chẳng đứa nào chạy ra sân mấy khu chung cư chơi trốn tìm đuổi bắt đá bóng với nhau được. Tất nhiên, hôm nào mà tôi chạy đi chơi thì hình ảnh bà với cây roi bằng thân cọ vót nhọn lại mang một tầng ý nghĩa khác.

   Dì chạy đi mua thuốc, rồi đem về cho tôi thêm một túi với năm loại thuốc các loại màu và các loại hình dáng, để rồi tôi lại phải tự ngồi bóc những viên con nhộng và nghiền những viên nén thật kĩ, trong khi nghe mợ, cậu và các bác ngồi bàn luận xem nên cho tôi uống kháng sinh liều mạnh Cefalor hay chỉ dùng Amoxicillin thông thường là đủ.

   – Giờ lại còn chỉ uống thuốc bột nữa… Cháu càng ngày càng khó chiều đấy. – Dì thở dài – Về nhà nhớ cầu nguyện trước khi đi ngủ nhé.

Sáu.

   Tối hôm ấy, tôi nhớ rằng, khi tôi ôm bụng nằm thu lu trên giường, em trai có hỏi:

   – Chị làm sao thế?

   – Cầu nguyện. – Tôi trả lời.

   Our Father in heaven,

      hallowed be your name,

      your kingdom come,

      your will be done,

      on earth as in heaven.

   Give us today our daily bread.

   Forgive us our sins

      as we forgive those who sin against us.

   Save us from the time of trial

      and deliver us from evil.

   For the kingdom, the power, and the glory are yours

      now and for ever.

   Amen. (*)

Bảy.

   Theo một cách nào đó thì ốm đau có tác động khá tốt đối với trí thông minh triết học của tôi. Có lẽ khi đầu óc người ta nặng nề thì tâm hồn ta lại thấy ánh sáng.

   Let this be our prayer

   Let this be our prayer

   Just like every child

   Just like every child

 

   Needs to find a place

   Guide us with your grace

   Give us faith so we’ll be safe…

 

   Bài hát ấy, đừng hát cho chị nghe. Hãy về và hát cho bố em. Hãy về và hát cho mẹ em. Hãy về và hát cho gia đình – điều duy nhất mà từ lúc chào đời đến ngày ra đi, em không thể từ bỏ được. Hoặc nếu em có nhiều thời gian hơn nữa, hãy hát cho bạn bè và thầy cô em, những người đầu tiên em nghĩ tới khi phải viết bài tập làm văn.

   Bởi tất cả chúng ta đều chung một quyền được sống trong những ngày mà linh hồn ta còn hiện diện, và đều chung một nghĩa vụ phải chứng minh mình đang sống với những người thân thiết.

   Hãy hát cho người thân của em nghe, như một lời an ủi và vĩnh biệt. Vì đối với những người còn thức, nỗi đau trong lòng họ sẽ mãi mãi lớn hơn kẻ nhắm mắt. Em thử nghĩ mà xem…

 

   Tôi đã từng đi qua những cuộc chia ly vĩnh viễn đột ngột và tàn khốc như thời khắc một chiếc lá rơi, hay như bước giao mùa từ nóng sang lạnh càng ngày càng vô tình và vội vã dưới sự ủng hộ nhiệt liệt của tình trạng nóng lên toàn cầu. Tôi đã từng ở đó, nên tôi hiểu họ – những người ở lại.

   Họ sẽ bị bệnh. Hoặc họ sẽ đau đớn.

   Hoặc họ sẽ bị bệnh một cách đau đớn.

   Rất lâu…

Tám.

   Cuối cùng cũng phải nghĩ ra một thứ gì đó để làm tiêu đề.

   Sân trường chúng tôi quá nửa những cây to là bàng. Nếu đã có ai từng để ý tới cây Liễu roi trong tập “Harry Potter and the Prisoner of Azkaban”, hẳn sẽ thấy sự tương đồng giữa hai loài cây này.

   Rùng mình một cái, lá rụng.

   Rồi giật mình một chút nữa, lá lại mọc xanh mơn mởn.

——-

Chú thích:

(*) Bài mà chúng tôi thường đọc ở nhà thờ là bản dịch tiếng Việt. Trọn vẹn nó như thế này:

   Lạy Cha chúng con ở trên trời,

      danh Cha được tôn Thánh,

      nước Cha được đến,

      ý Cha được nên,

      ở đất cũng như trời.

   Xin Cha cho chúng con hôm nay đủ ăn đủ dùng.

   Xin Cha tha tội cho chúng con,

      như chúng con đã tha kẻ phạm tội nghịch chống chúng con.

   Xin chớ để chúng con bị cám dỗ,

      song kéo chúng con ra khỏi điều ác.

   Vì nước, quyền, vinh hiển đều thuộc về Cha

       đời đời, vô cùng.

   Amen.

——-

THE END.

Hải Phòng. Ngày 14.4.2015.

Hóa ra mình bị bronchiolitis, hay viêm tiểu phế quản. Cái thứ bệnh mà có tới 80% trường hợp mắc bệnh là trẻ em dưới sáu tháng tuổi.

29 North latitude, 116 East longitude.

29 độ vĩ Bắc, 116 độ kinh Đông. (*)

Dạo trước, có một hôm tôi và Yang Min đạp xe qua cổng một trường Tiểu học, và chợt nghe thấy tiếng nhạc văng vẳng vang lên. Một bài hát thiếu nhi mà hẳn là ai cũng quen thuộc.

Bài hát đó thế này:

“Trái đất này là của chúng mình

Vàng trắng đen tuy khác màu da

Bạn yêu ơi, chúng ta là hoa quý

Đầy hương thơm, sắc khoe màu tươi thắm

Màu hoa nào – Cũng quý cũng thơm

Màu da nào – Cũng quý cũng thơm!…” (0)

Tôi thở dài, nhìn sang Yang Min. Cậu ấy vẫn đạp xe, dường như chẳng hề nghe thấy những lời ca ấy.

Để rồi đến khi tôi từ bỏ ý định đọc được bất kì cảm xúc gì trên gương mặt kia, thì Yang Min khe khẽ nói, khóe miệng vẫn cong lên như đang cười:

– Chỉ phân biệt quốc tịch, không phân biệt màu da, phải không?

Đó là một ngày lập hạ nắng chói chang và đầy khó chịu. Những đám mây dường như chỉ loăng quăng ở tít tận chân trời xa tắp mà chẳng chịu đem đến chốn phố phường Hà Nội ngột ngạt và oi ả này một chút râm mát.

Tôi khẽ quấy ly cafe theo một nhịp điệu uể oải và buồn tẻ chợt bật ra trong đầu, vu vơ nhìn quanh tiệm cafe đầy hương gỗ này. Một ngày lập hạ có lẽ không được dùng để nghĩ về công việc, đến bản thiết kế, đến việc điều chỉnh cửa cho thoáng gió và đảm bảo về nhiệt học, hay bất kì thứ linh tinh lang tang gì khác. Một ngày lập hạ chỉ dùng để ngồi và ngắm nhìn chung quanh, như một đứa trẻ lần đầu tiên được đi chơi một mình.

Và tôi nhìn thấy Yang Min.

Cậu ấy ngồi sâu trong góc khuất – chỗ rất thích hợp để theo dõi mọi người. Nhưng hẳn là Yang Min không hề có ý định đó, ít ra, cậu ấy không hề tỏ ra nhận thấy thằng bạn thân này.

Yang Min vẫn như hồi đi học. Mái tóc đen tết đuôi sam dài đằng sau, không nhuộm, không high-light, không ép, không tỉa. Chiếc mũi cao, làn da trắng, và hẳn sau cặp kính râm đen kia vẫn là đôi mắt một mí mà mấy năm trước tôi từng nhìn thấy hằng ngày ấy. Điều duy nhất khác biệt có lẽ là lớp son đỏ tươi trên đôi môi lúc nào cũng nhếch lên như đang cười.

Yang Min bây giờ vẫn là một Yang Min mà tôi quen hồi đi học. Dường như đoạn quá khứ đầy cay đắng đó chẳng đáng để cậu ấy bận tâm đến.

Nhưng tôi biết là có. Theo cái cách cậu ấy rời xa nơi này.

Năm tôi học lớp mười hai, giai đoạn căng thẳng nhất trước khi bước vào kì thi đại học đầy khắc nghiệt, lớp chúng tôi có học sinh mới. Người Hàn chính gốc, không lẫn vào đâu được với đôi mắt híp kia. Nghe nói bố mẹ cậu ấy đều làm trong một công ty đa quốc gia, bắt buộc phải chuyển về Việt Nam trong thời gian này. Họ không an tâm về cô con gái học năm cuối trung học nên chuyển luôn con mình về đây.

Phải, là một cô gái.

Cậu ấy vào lớp, khẽ cười, cúi gập người theo chuẩn một góc ba mươi độ và nói tiếng Việt, giọng hơi lơ lớ, nhưng phát âm vẫn rõ ràng hơn hầu hết người ngoại quốc khác:

– Tớ là Yang Min. Tên Việt là Dương Mẫn.

Bàn tôi vốn có bốn chỗ ngồi, nhưng lại chỉ thuộc về quyền sở hữu của tôi và Duy Anh – một thằng khá hay, trừ bỏ thói nóng nảy, bồng bột và nông nổi của tuổi trẻ thì chơi cũng được.

Yang Min ngồi giữa tôi và cậu ta.

Cậu ấy quay sang Duy Anh, khi tôi vừa định chìa tay ra làm quen:

– Chào cậu. Rất vui được ngồi cạnh cậu.

Giọng nói hiền hòa, nhã nhặn của cậu ấy đập tan ý muốn của tôi. Duy Anh im lặng, mặt cậu ta vẫn cắm xuống quyển sách, che khuất đi đôi mắt và không biểu lộ chút thái độ nào. Yang Min nhún vai, rồi quay sang tôi.

Rất nhiều năm về sau, tôi vẫn cho rằng: lần gặp mặt đầu tiên ấy đã quyết định rất nhiều thứ sau này. Yang Min nói chuyện với Duy Anh trước, cậu ấy thích Duy Anh. Còn tôi là người định bắt tay Yang Min, tôi thích cậu ấy, rồi nhanh chóng thu tay lại, chỉ làm một thằng bạn thân.

Phải, Yang Min thích Duy Anh. Còn tôi, từ một kẻ suýt có được mối tình trong âm thầm lần đầu tiên trong cuộc đời, lại biến thành một thằng bạn chí cốt cực kì tuyệt vời.

– Đưa bài tập Tiếng Anh của cậu đây, tớ chỉnh cho.

Yang Min đập quyển vở vào đầu tôi khi thấy tôi lờ tịt cậu ấy, chỉ đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ.

– Woo Ahn, bài tập Tiếng Anh!

Yang Min sẵng giọng. Những lúc tức giận, cậu ấy sẽ gọi tôi như thế, cả họ tên bằng tiếng Hàn, còn bình thường, cậu ấy sẽ gọi tôi là An, hoặc Ahn. Không bao giờ là Vũ An. Yang Min bảo, bạn thân thì phải có cách gọi khác, thế nên tôi cũng chỉ gọi cậu ấy là Min.

Có nghĩa là, bây giờ cậu ấy đang tức giận.

– Đó là tên con gái. – Tôi miễn cưỡng dứt mắt ra khỏi cây xà cừ trong sân trường mà tôi chưa bao giờ vẽ được, làu bàu lần thứ sáu mươi tám, nhưng ém lại ngay khi thấy ánh mắt lạnh lẽo mà cậu ấy quăng sang phía mình – Được rồi, được rồi mà…

Yang Min rất giỏi Tiếng Anh. Thực ra, vì tính chất công việc của bố mẹ nên mỗi thứ tiếng thông dụng cậu ấy đều rành một phần. Cho nên, việc vứt bài vở lại cho một kẻ thần đồng ngôn ngữ như cậu ấy là việc hoàn toàn có thể yên tâm.

Nhưng ngoài ngôn ngữ ra, cậu ấy dường như chẳn có thế mạnh nào khác. Tôi phải kèm thêm từ Toán, Lý đến một tí kiến thức về Địa, Công nghệ, rồi cả lý thuyết về Quốc phòng để cậu ấy không bị tụt lại khi học. Nhưng kể cả với những môn không quan trọng, thậm chí không có trong chương trình học của Hàn Quốc ấy đi chăng nữa, Yang Min đều nghe giảng hết sức chăm chú, lông mày nhíu chặt, hỏi ti tỉ câu về những thứ trên giời dưới biển chỉ cần dính đến bài giảng một tí, bắt tôi trả lời cho bằng được, và khiến tôi gần như phát điên.

Nhưng dẫu cho có bị cằn nhằn đến cỡ nào thì Yang Min cũng cứ làm theo ý cậu ấy, chiếm hết chút thời gian rảnh rỗi vô cùng hiếm hoi của tôi giữa những giờ học vẽ dày đặc. Và tôi cũng chỉ biết thở dài và chấp nhận, bởi cô bạn thân này là kẻ cứng đầu nhất quả đất, ít nhất là quả đất mà tôi biết.

Có lần, tôi định nói chuyện với cậu ấy về Duy Anh. Lúc ấy, chúng tôi đang dừng lại bên vệ đường mua mấy cái bánh khoai rán, và cậu ấy lập tức tọng một phần bánh to tổ chảng vào miệng tôi.

– Không nói nữa. – Yang Min nhàn nhạt mở miệng, khác hẳn vẻ phấn khích mới hai mươi giây trước khi lần đầu tiên ăn bánh khoai vỉa hè. Nghiêm chỉnh và (tôi vừa sờ sờ mũi vừa cố gắng nuốt miếng khoai trong khi tìm từ thích hợp) giả tạo hơn hẳn.

Cậu ấy ngừng một lát, rồi quay sang tôi, nhướn mày:

– Tớ có cách và kiểu làm của tớ, Woo Ahn.

Tôi lại sờ sờ mũi.

Và kể từ ấy, tôi và Yang Min không bao giờ đưa Duy Anh vào cuộc nói chuyện của mình. Thậm chí, nếu không phải vì ánh mắt Yang Min nhìn cậu ta hơi đặc biệt, và tôi nhớ rõ vào một buổi tối đẹp trời nào đó, cậu ấy đã tự thú nhận rằng mình thích Duy Anh (khiến tôi suýt đâm vào cột điện trong ánh mắt thương hại của mọi người), thì tôi đã nghi ngờ suy nghĩ rằng Yang Min đã có tình yêu sét đánh với cậu ta từ cái nhìn đầu tiên.

Đầu năm 2013 – năm chúng tôi học lớp 12, tình hình chiến sự trên biển Đông căng thẳng lên hẳn. Đi đâu cũng nghe thấy tiếng radio, tiếng đài phát thanh lặp đi lặp lại một câu nói: “Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam”.

Tất cả nam sinh đều sẽ nhận được giấy báo đi nghĩa vụ quân sự sau kì thi Đại học, điều này làm cho cả khối rầm rĩ một thời gian dài. Đi trên sân trường, tôi thi thoảng lại thấy hai ba người đi với nhau, xì xào mấy tin lá cải được nghe từ mọi xó xỉnh.

– Bạn tao ở Hải Phòng kể dạo này toàn máy bay trực thăng bay ở tầm thấp lượn qua lượn lại, ngày nào cũng có vài đợt.

– Hình như bên mình mua được lô máy bay không người lái mới, đang thử nghiệm.

– Hôm qua có một gã người Hoa vào tiệm cầm đồ gần nhà tao, chưa kịp lên tiếng đã bị chủ nhà lấy chổi đuổi đi, tí nữa thì bị cả xóm xua chó…

Yang Min đi qua, nụ cười trên môi ngày càng gượng gạo, nhưng cậu ấy vẫn cố chấp không chịu tắt nó đi. Tôi khẽ liếc, rồi quyết định vờ như không biết, tiếp tục huyên thuyên về Khải Hoàn Môn Paris.

Kỳ thực, tôi hiểu rất rõ những áp lực mà cậu ấy đang phải gánh chịu, những áp lực đến từ ngay chính bạn bè chung quanh chúng tôi. Người Hàn Quốc, từ xưa đến nay đều bị mọi người cho là cùng một giuộc với Trung Quốc, thêm vào đó là số lượng kẻ Anti-Kpop và những phần tử trung gian sẵn sàng gia nhập hiệp hội đó bất cứ lúc nào ngày càng đông, đặc biệt là sau vụ một đứa trẻ có mẹ là người Việt Nam bị cô lập, hắt hủi ở một trường học tại Seoul.

Dường như giới trẻ Việt phẫn uất vì điều đó. Và họ đáp trả bằng cách tuyệt vời và nhân đạo nhất: cô lập và kì thị lại người Hàn Quốc.

Yang Min là một ví dụ điển hình. Cậu ấy bị chơi xấu, đánh lén, mách lẻo, đặt điều, nói khích, chửi rủa, cả sau lưng lẫn quang minh chính đại.

Nhưng cậu ấy vẫn cười khẩy, khẽ liếc sang tôi:

– Theo như cách nói của các cậu, thì bọn họ đều là Young – Buffaloes, phải không?

– Cậu định tỏ tình sao, Min?

Tôi trố mắt. Lần đầu tiên Yang Min cho phép cái tên Duy Anh xuất hiện giữa chúng tôi, và ngay lập tức mang đến một cái tin sốt dẻo.

– Đằng nào thì các cậu cũng sắp tốt nghiệp, và tớ sắp đi. – Cậu ấy nhún vai.

Tôi cười méo mó. Vẫn cái kiểu quyết định nhanh gọn và không bao giờ bị lung lay ấy, kể cả đó có là một quyết định gần như không thể thành công nổi đi chăng nữa.

Yang Min giao cho tôi nhiệm vụ hẹn Duy Anh lên sân thượng.

Ngày hôm ấy trời trong, gió nhẹ, chưa có nắng. Mới tháng ba. Và thậm chí, đứng trên này còn nhìn thấy những cây xoài hai bên đường đã nở hoa đỏ nhàn nhạt thành từng chùm dày đặc.

Phải, tôi vẫn còn nhớ rất rõ, tất cả mọi thứ của ngày hôm ấy. Và tôi nhớ rõ cả nét mặt của Yang Min khi Duy Anh vứt hộp quà mà cậu ấy tặng xuống đất.

Cậu ấy nhíu mày.

Duy Anh gần như quát lên:

– Cút về Hàn Quốc đi, cậu cùng với những gì bẩn thỉu của cậu. – Mặt cậu ta đỏ bừng, âm lượng càng lúc càng lớn – Các người tưởng với nét chữ run rẩy đó, cái thứ tự chữ dở hơi đó, rồi phát âm bằng thứ giọng nghèn nghẹt âm mũi đó mà có thể sống ở đây được hay sao, sẽ được chúng tôi chấp nhận hay sao?

Gói quà vứt lăn lóc trên đất. Chân lông mày của Yang Min giãn ra, nét mặt cậu ấy trở về vẻ lạnh lẽo thường có.

– Apart-heid, tất cả mọi người đều tưởng nó đã chết. – Cậu ấy nhìn thẳng vào mắt Duy Anh – Nhưng Nelson Mandela sẽ thất vọng lắm khi biết nó vẫn sống khỏe mạnh và tươi tốt thế này. Cậu tưởng rằng…

Yang Min cất cao giọng lên, nhưng vì một lý do nào đó, cậu ấy lại không nói nữa. Chỉ đơn giản là xoay gót đi.

Nhưng tôi biết cậu ấy định nói gì.

“Cậu tưởng rằng, chúng tôi muốn sống ở đây sao?”

Cậu ấy không nói, vì cậu ấy không muốn biến mình thành một kẻ giống như thế, như Duy Anh.

Tôi đấm cậu ta một phát.

Bóng Yang Min nhanh chóng biến mất. Nhanh hơn một cú đấm của tôi.

Duy Anh lau máu ở khóe môi, và trong một thoáng, tôi tưởng như cậu ta sắp đánh nhau với tôi đến nơi, thì cậu ta lại nói:

– Bố tao bị một người Hàn Quốc giết.

– Người đó là Yang Min sao?

Tôi nhếch mép, nhưng không cười. Cuối cùng thì cũng học được điệu bộ đó của cậu ấy.

Mỗi kẻ đều có câu chuyện của riêng mình, nhưng không ai có quyền dùng câu chuyện ấy làm tổn thương người khác.

Yang Min, Yang Min

Min của tôi…

Tiếng leng keng ngân lên từ những chiếc chuông gió treo trước cửa.

Từng tốp học sinh bắt đầu túa ra từ một phía của con đường. nhìn phù hiệu trên cánh tay trái của chúng, tôi khẽ nhíu mày.

Hóa ra, tôi đã gần trường cấp ba cũ của mình từ lúc nào không hay. Mà cũng phải, kể từ ngày tốt nghiệp, tôi đã chẳng còn đặt chân đến đó lần nào nữa.

Yang Min sau ngày hôm ấy hoàn toàn đoạn tuyệt với tôi, với tất cả mọi người. Hết tháng tư, cậu ấy quay về Hàn Quốc. Những lời trước lúc đi mà cậu ấy nói với cả lớp như thế này:

“Cảm ơn các bạn, cảm ơn Việt Nam đã dạy cho tôi rất nhiều điều.” Cậu ấy cười rộ lên, và lần đầu tiên nụ cười ấy lan đến tận khóe mắt, miễn cưỡng một cách rất sung sướng “Tất cả các cậu, đều, rất, tuyệt, vời!”

Tôi trợn tròn mắt, há to miệng làm khẩu hình với cậu ấy.

“Ồ, phải…” Yang Min ngưng lại một chút rồi nói “… trừ Woo Ahn ra.”

Tiếng cậu ấy chợt nhẹ tênh đi, đến nỗi tôi không dám chắc cậu ấy gọi tôi là Woo Ahn hay Vũ An.

Hai cô bé chạy vào, ngó nghiêng, rồi lao sầm đến chỗ Yang Min đang ngồi.

Tay tôi đặt cốc cafe xuống. Chiếc áo đồng phục của trường bây giờ vẫn thế. Vẫn là chiếc áo tôi và Yang Min mặc năm lớp 12. Vẫn là chiếc áo bạn bè tôi mặt khi cô lập cậu ấy. Và giờ, hai học sinh mặc chín chiếc áo ấy đang rối rít quanh Yang Min:

– Chị quản lý, cho em xin chữ kí với ạ!

– Chụp với em một kiểu nhé, chị quản lý…

– Tớ còn tưởng cậu sẽ bơ lác tớ đi chứ.

Yang Min cười cười. Tôi ngại ngùng sờ sờ mũi, ngồi xuống đối diện cậu ấy, nhìn bóng hai cô bé đi ra khỏi quán.

– Bơ là bơ thế quái nào được. – Tôi khẽ phản đối, bĩu môi – Cậu sẽ đi đập cái túi hàng hiệu đó vào đầu tớ ngay khi tớ dám nhấc mông ra khỏi cửa chứ gì?

– Cậu biết không… – Yang Min khẽ trầm ngâm một lúc, rồi dường như cậu ấy quyết định sẽ cư xử với tôi y như lúc trước, có nghĩa là sẽ cùng nhau nói những mẩu chuyện sẽ lộn xộn, rối tinh rối mù, chẳng có mào đầu và chẳng có kết thúc – …mấy hôm trước, tớ xuống sân bay cùng nhóm của mình, bên cạnh việc suýt chết ngạt thì còn gặp một người nữa.

– Duy Anh? – Tôi nhướn mày, dễ dàng đoán. Thực ra thì người mà cậu ấy nhớ cũng chỉ có bấy nhiêu thôi.

– Cảnh sát sân bay thì phải. – Yang Min khẽ gật đầu, bím tóc hát ra đằng trước.

Tôi khẽ liếc cậu ấy:

– Hẳn cậu ta phải tiếc lắm khi không tìm thấy quả bom nào để tống tất cả các cậu vào tù. – Trong giọng nói không hề che giấu vẻ châm biếm. Châm biếm điều gì đó.

Yang Min bật cười, tiếng cười thành thật, dẫu cho mắt cậu ấy vẫn không hề cong hơn, dù chỉ một chút.

Chúng tôi lại bắt đầu ngồi tán gẫu như ngày xưa, về nhóm nhạc của cậu ấy, về việc thiết kế của tôi.

Chuông hẹn giờ vang lên. Yang Min nhìn vào điện thoại, cười méo xệch:

– Lần này cậu bao nhé, tớ có việc rồi.

Tôi gục gặc đầu. Lần sau cậu ấy phải trả, tôi không chịu bị ăn quỵt đâu.

Trước khi đi, bàn tay cậu ấy đặt lên tay tôi:

– Vũ An, cảm ơn cậu.

Lần này, tôi nghe rõ cách cậu ấy gọi mình. Giọng cậu ấy sắc hơn, chuẩn hơn, như một người Việt gốc.

Tôi đặt bàn tay kia của mình lên tay cậu ấy:

– Uli-neun yeong-wonhi kah-chang chin-han chin-goo, Yang Min… (**)

Có những thử tưởng chừng như đã biến mất. Nhưng không, chúng vẫn ở đó. Chỉ là chúng tồn tại theo một cách khác.

Lại có những thứ tưởng như vẫn y nguyên như ban đầu. Cũng không. Đến một lúc nào đó, ta mới nhận thấy, tất cả đã khác xưa.

Như dạo trước, có lần Yang Min vừa nhìn ly sinh tố, vừa nói với tôi thế này:

“Ahn, cậu biết không, từ Hàn Quốc đến Việt Nam chỉ có hai cách, lúc nào cũng thế. Một là đường hàng không, và thi thoảng lại phải dừng để đổi chuyến tại Sân bay Quốc tế Bắc Kinh, Trung Quốc.” Cậu ấy ngước lên, nhìn tôi “Và hai, là đường biển.”

Yang Min cắm ống hút vào giữa cốc sinh tố.

Nước trên bề mặt khẽ lăn tăn rồi lặng yên.

Nhưng phía dưới, những viên đá vẫn xô vào nhau, di chuyển.

(*) Vị trí giữa Hà Nội và Seoul. Vì quá lười nên chỉ làm tròn đến độ. Nếu tò mò, có thể down Google Earth để ngâm cứu từ từ (Hà Nội là 21B, 106Đ, còn Seoul là 37B, 126Đ)

(**) “Chúng mình mãi là bạn thân, Yang Min à…”.

Never let me go

   Hold me in your arms, love me like your best friend did,

   Promise, I won’t hurt you kid,

   Hold me really tight until the stars look big,

   Never let me go…

 

Không.

Tôi thích gọi nơi này là Tinh cầu Lưu trữ.

Tôi không nhớ mình đã ở đây trong bao lâu. Tôi chỉ biết rằng, tôi đã từng nhìn thấy, từng quan sát, từng nói chuyện với rất nhiều người, đến nỗi tôi chẳng thể nhớ hết, như một thói quen từ dạo trước.

Có người chỉ xuất hiện trong giây lát rồi tan biến. Tôi thích gọi họ là những người “Vô Ký ức”. Có thể quá khứ của họ đúng như một trang giấy trắng, hoặc có thể, họ có rất nhiều ký ức, nhưng không ai muốn nhớ về chúng.

Có những người đã ở đây lâu, rất lâu. Lâu đến nỗi, trên gương mặt họ không thể biểu lộ điều gì nữa. Tất cả những gì làm nên hình hài của họ chỉ đơn thuần là những thành tích, những giải thưởng, những phát minh, những sáng chế. Không niềm vui, nỗi buồn, sự bất an hay thanh thản. Khuôn mặt và mái đầu họ hiện hữu rất rõ ràng, nhưng ngược lại, nơi ngực trái, chỗ vốn là trái tim lại chỉ còn một khoảng trắng xóa.

Và cũng có những người như tôi. Họ gần như trong suốt, nhưng lại không biến mất. Những kí ức mà họ được có, những ký ức mà họ được nhớ ít ỏi đến đáng thương.

Bởi người ta không muốn nhớ, lại chẳng dám quên…

Một.

Vậy mà lúc này, tôi đột nhiên nghe thấy chúng.

Những giai điệu thoáng qua ngay tại đây, lại như vọng lại từ tận nơi nào đó trên một thế giới khác…

   If you love me hardcore, then don’t walk away

   It’s game boy, I don’t wanna play,

   I just wanna be yours, like I always say,

   Never let me go…

 

   Never… let me go…

   Giờ đây, tôi lại nhớ, Dan đã từng nói với tôi như thế.

Và tôi lại nhìn thấy…

   – Đừng lo, tớ sẽ sớm gặp lại các cậu. Tớ hứa đấy!

   Lúc ấy, họ cười rất rạng rỡ. Eric và Jane. Bởi họ biết rằng, chúng tôi biết nhau từ thuở còn nằm trong nôi, và kể từ ấy đến giờ, tôi chưa một lần thất hứa.

   Nhưng Dan thì không. Cậu ấy chỉ khẽ nói:

   – Tớ bật Never let me go cho cậu nhé?

   Chẳng cần đợi tôi trả lời, cậu ấy đã cho băng vào radio và vặn âm lượng lớn hơn. Eric và Jane lặng lẽ ra khỏi phòng, đóng cửa lại thật khẽ.

   Đây là bài hát của tôi và Dan. Chỉ của hai chúng tôi. Họ hiểu điều đó.

   Dan nắm tay tôi thật chặt. Cậu ấy run lên bần bật trong khi Lana Del Rey vẫn đang hát bằng cả trái tim.

   – Nếu cậu đứng dậy được, tớ sẽ khiêu vũ với cậu. – Cậu ấy thì thầm, hơi mỉm cười.

   – Khiêu vũ với Never let me go ư? – Tôi cố kìm cơn ho trong cổ họng, nặng nhọc hỏi, giọng trêu chọc – Tớ sẽ vừa đi vừa ngủ đấy.

   Dan bật cười, ngón tay khẽ chạm vào má tôi. Nụ cười ấy nhanh chóng vụt tắt.

   – Nhớ nhé, Anna, đừng xa tớ… Mãi… đừng bao giờ xa tớ…

Rồi những hình ảnh ấy vỡ tan. Tất cả. Từ bình hoa lily vàng trên mặt bàn, cuốn sách đặt ngay đầu giường, đến gương mặt dịu dàng của Dan và hai bàn tay đầy mồ hôi đang nắm chặt nhau của tôi và cậu ấy.

Không còn gì cả. Những ký ức tiếp theo, không ai cho tôi được nhớ. Dan, Eric và Jane.

Hay nói cách khác, họ cũng không cho phép mình được nhớ.

Tôi chưa hề gặp lại Eric và Jane, có lẽ bắt đầu từ lúc có lời hứa đầy lạc quan kia.

Khi ấy, Eric của tuổi mười bảy chậm chạp, cẩn thận và ngố tàu, có ước mơ vĩ đại là mở một cửa hàng bán đồ đan len cho các cụ già, luôn bị tôi trêu chọc đến mức chỉ còn nước chui vào góc tường cạo đất. Mỗi lần như thế, Jane đều quắc mắt trừng tôi và chạy ra an ủi cậu ấy. Cô ấy sẽ cất giọng nghiêm nghị mà chỉnh đốn tôi một lượt về tất cả các tác phong mà tôi nên có, những thái độ và cách đối xử với bạn bè, rồi không nên ỷ mạnh bắt nạt yếu, để rồi những lần sau tôi lại càng hứng chí chơi ác hơn.

Tôi của quá khứ vẫn gặp họ trong những dòng ký ức xanh tươi ấy, những dòng ký ức của tôi và của họ. Tôi gặp họ trong những buổi dã ngoại trên ngọn đồi tràn ngập ánh nắng, chuồn chuồn và mứt dâu bay; trong những buổi tối Jane nằm giường tầng dưới kéo chăn đến tận đầu, run lập cập trong tiếng ù ù vọng lại từ ngoài cửa, và hai phút sau thì tôi xông vào cười sặc sụa; trong những buổi sớm tinh mơ đến phiên chúng tôi cho lũ gà ăn, khi Jane và Eric đang chăm chú ngắm lũ gà nở thì tôi lại lấy vỏ trứng rắc lên đầu họ.

Nhưng chỉ có thế. Họ không bao giờ cho tôi biết về hiện tại, hay tương lai. Có lẽ, trong quãng đường tiếp theo của các cậu ấy, tôi chỉ là một ký ức đầy đau buồn, không nên được xuất hiện.

Còn Dan, Dan cao gầy và dịu dàng của tôi, thì đến quá khứ, cậu ấy cũng chẳng cho tôi bước vào. Suốt quãng thời gian mà tôi chẳng biết là bao nhiêu ngày, bao nhiêu tháng mà tôi đã từng ở bên cậu ấy kia, khoảng kí ức rộng lớn biết bao, mênh mông biết bao mà cậu ấy xuất hiện kia, tất cả đều trống rỗng.

Rỗng đến nỗi tôi gần như trong suốt.

Thế nên, khi nghe thấy giai điệu của Never let me go, và khi đoạn ký ức kia xuất hiện, tôi mỉm cười.

Hai.

   Dan bước tới gần tôi.

– Đi học thôi, đồ lười biếng – Cậu ấy cất cao giọng.

Cậu ấy vẫn như xưa, tôi có thể khẳng định thế. Chiếc mũ lưỡi trai màu xanh dương đội lệch, mái tóc xoăn tít một cách rất tri thức cùng gương mặt hiền lành đang cười toe toét. Nhưng rồi khuôn mặt ấy ngay lập tức đanh lại, và cậu ấy nhíu mày:

– Cậu lại ốm?

Cái nhíu mày ấy khiến tôi sững lại. Bởi đối với tôi, nó rất quen thuộc, vô cùng quen thuộc. Quen thuộc đến đau lòng.

– Anna, cậu lại ốm?

   Dan gần như chạy đến chỗ tôi, vứt mạnh cặp xuống đất và lục tung tủ đầu giường để tìm nhiệt kế, vừa tìm vừa không ngừng trách móc.

   – Tớ chẳng hiểu cậu nghĩ gì. Cửa sổ mở, cái chăn thì tớ cá là cậu vừa mới kéo lên xong, chưa kịp cuộn lại dưới chân kia kìa. Cứ làm như mình là siêu nhân, trong khi sức khỏe thì chả ra sao…

   Tôi phải cố kìm tiếng cười và những cơn ho lại. Thực sự, Dan dễ thương của tôi chỉ mất bình tĩnh trong hai trường hợp. Một là khi cậu ấy nhìn thấy ong, hai là lúc tôi ốm.

   – Tớ đo nhiệt độ rồi mà, có ba tám độ rưỡi và vẫn còn nói chuyện được – Tôi giở giọng nịnh nọt, hòng ngăn chặn cơn tức giận của cậu ấy.

   Một lúc lâu sau, Dan vẫn im lặng, mắt cậu ấy đăm đăm nhìn về một điểm dưới chân giường. Mặt cậu ấy tái đi. Trong một thoáng chốc, tôi tưởng chừng như cậu ấy sắp quát vào mặt mình.

   Nhưng Dan chỉ bật cười:

   – Cậu vẫn luôn tùy hứng như thế, phải không Anna? Cậu dám điều khiển mọi cảm xúc của tớ, sự bất lực và đau lòng của tớ, phải không Anna?

   Cậu ấy, vẫn đang cười, cầm nó lên. Đôi giày converse dính bùn.

   – Này, liệu tớ có phải bạn trai cậu không?

   Dan nhướng mày. Ánh mắt của cậu ấy tràn đầy nỗi bất an và thất vọng, khiến tôi chẳng đủ can đảm để nhìn tiếp. Và tôi, chẳng biết từ lúc nào, đã hướng tầm mắt về phía khung cửa sổ đang mở.

   Ánh nắng hồng nhàn nhạt của bình minh đang len vào giữa những bụi cỏ gai già, vàng úa như thể cháy nắng, mọc thưa thớt dọc lối mòn. Và  xung quanh chúng, thi thoảng lại thấy khẽ rung rinh một bông hoa dại đỏ hồng mà tôi chẳng biết tên. Mùi táo thoang thoảng: táo mọc um sùm trên những hàng rào dày đặc đã chín, loại táo mọc hoang, chan chát, tí hon. Những làn gió mang theo hương táo cũng mang theo cả những chiếc lá khô, hàng bạch dương đã chuyển màu vàng hoe. Đằng sau chúng, phía xa xa, chỗ chuồng gà, những người đến phiên trực hôm nay đã xong việc, trên tay là những chiếc khay đựng trứng, đi về phía kí túc xá, thi thoảng lại để khay trứng lại mà đuổi nhau, mà hò hét.

    Tất cả những hình ảnh ấy in vào tâm trí tôi chỉ trong hai giây. Rồi tôi khẽ gọi Dan:

   – Dan, lại đây… Nhìn kĩ hộ tớ xem, có phải trong đám cỏ kia, có một ngọn cỏ non không? – Tôi khụt khịt mũi, hơi nhướn người lên, rồi nằm phịch xuống, thở dài – Bọn nó sung sức thật, sắp vàng hết rồi mà vẫn có cỏ non…

   Sắc mặt Dan trầm xuống. Cậu ấy luôn nhạy cảm quá mức cần thiết. Tôi khẽ chạm vào tay cậu ấy.

   – Tớ còn ở đây này, thấy không? Nhưng mà trăng đêm qua thực sự rất sáng, rất tròn, cậu sẽ không thể tưởng tượng được đâu!

   Thực sự, nếu không tận mắt chứng kiến cảnh ấy, sẽ chẳng ai có thể tưởng tượng được, cách mà mặt trăng ló đầu qua những đám mây, đột ngột và rực rỡ. Cái ao tù vốn chỉ vượt quá đầu gối người một chút, dưới ánh trăng bỗng rộng ra, sâu hơn, mênh mông, trông như một hồ nước lớn mà ở đó, những chú vịt trắng hóa thành thiên nga còn những con đom đóm biến thành muôn vì sao sa. Chúng như thể thực sự tự do, tự do giữa bầu trời bao la nhường ấy, và trong một khoảnh khắc nào đó, tôi cảm thấy, có lẽ mình cũng vậy.

   – Khoảnh khắc ấy rất kỳ diệu.

   Tôi nhìn Dan. Đến lúc này, cậu ấy lại né tránh ánh mắt tôi.

   – Ngồi xuống đây nào! – Tôi cười cười. Dan hơi lưỡng lự, nhưng rồi cũng tiến lại gần. Không để lỡ cơ hội, tôi túm lấy tóc Dan, khoái chí – Bắt được rồi nhé!

   Tôi bắt đầu bện tóc cậu ấy, mặc cho Dan đang nửa cười nửa mếu đầy khó khăn. Tóc Dan rất mềm, mặc dù chúng xoăn tít, và bện mớ tóc ấy là một thử thách rất hoành tráng.

   – Xin lỗi. Lần sau tớ sẽ kéo cậu đi cùng – Tôi huýt sáo – Xin phép cho tớ trốn học hôm nay đi.

   – Nếu tớ dám thò mặt ra với quả đầu này – Giọng Dan nhẹ nhõm – Và tớ sẽ mang cả vali quần áo nếu đi cùng cậu.

 

Ba.

– Làm gì có! – Tôi lắc đầu.

– May thật… – Cậu ấy thở phào – Vừa nãy trông cậu, ừm, mong manh lắm, như kiểu sắp bay đi luôn ấy.

Xung quanh chúng tôi, những người khác lắc đầu. Tôi hiểu ý nghĩa của hành động ấy: chắc chắn cậu ấy sắp viện một cớ nào đấy và rời đi.

– Cậu đã tìm tớ, đúng không? Nên cậu mới ở đây?

Tôi buộc mình phải lái cuộc trò chuyện về đúng hướng của nó, hướng mà tôi thích gọi là hướng Đối diện sự thật. Tôi không thể để cậu ấy đi, và đem tất cả linh hồn tôi theo mất bằng cách tiếp tục chôn giấu những ký ức.

– Quên mất, tớ có mang radio này. Tớ bật Never let me go cho cậu nhé?

Tôi bật cười. Bao nhiêu năm rồi vẫn vậy, Dan vẫn luôn đánh trống lảng theo cách này, và tôi vẫn luôn vui vẻ chấp nhận. Nhưng lần này, theo những lời hát, một ký ức nữa lại ùa về…

 

   – Này… cậu bé! Không được vào! Đấy là phòng cách ly!

   Cửa bật tung ra rồi lại đóng sầm lại. Bóng một cậu bé gầy gò nhanh tay khóa lại, rồi nhảy tót lên giường, chui vào trong chăn cùng tôi.

   – Họ còn định không cho tớ biết, thật vớ vẩn – Dan càu nhàu, áp bàn tay bé tí lên trán tôi – Đúng là nóng thật. Nhưng cậu chỉ mắc bệnh … thôi mà, không sao, nhỉ?

   – Tất nhiên rồi, tớ biết là tớ rất giỏi – Tôi đắc ý, vênh mặt, rồi nghêu ngao hát theo đoạn mình thích nhất.

   I remember when I saw you for the first time

   You were laughing, sparking like a new dime,

   I came over, “Hello, can you be mine?”

   Can you be mine,

   Can you be mine?

   – Là nó à? – Dan hơi nhíu mày – Quà sinh nhật mà xui xẻo, nhỉ?

   – Để yên đấy – Tôi cảnh cáo Dan khi thấy tay trái cậu ấy đang giơ lên – Đâu phải món quà nào cũng là quà của bạn thân nhất tặng sinh nhật thứ bảy của mình đâu? – Tôi đắc ý rung rung bàn chân trong khi vẫn lẩm nhẩm hát.

   Tôi phát điên vì số bảy. Dan biết điều đó.

   – Ờ, tùy cậu. Dù sao thì tớ cũng thích bài này.

   – Can you be mine? – Tôi bỗng quay ngoắt sang phía cậu ấy, rồi cười khùng khục khi thấy mặt Dan thộn ra – Tớ thích câu đấy khủng khiếp!

Bốn.

– Đừng có nói lại là nó xui xẻo thật đấy nhé! Tớ vẫn rất thích là được – Tôi ngăn chặn kịp thời khi Dan định mở miệng – Nếu không có nó, thì thậm chí cả đời tớ sẽ chẳng có mối liên hệ nào đặc biệt với cậu đến thế này…

– Cả… đời? – Dan lặp lại. Tôi nhận ra bàn tay cậu ấy run lên.

Xung quanh chúng tôi, những người khác lại lắc đầu. Trong thoáng chốc, tôi gần như không còn nhìn thấy bàn tay mình nữa.

Tôi đã ở gần cậu ấy đến nhường này, chẳng lẽ lại để cậu ấy đi?

– Nghe này, Dan, đừng đi… – Giọng tôi rất nhỏ. Chẳng thể khác được – Nhìn tớ đi, tớ sắp tan biến rồi…

Dan giật mình. Mắt cậu ấy mở lớn. Đôi mắt xanh ấy tràn ngập sự sợ hãi, bàng hoàng và hoảng loạn. Trong thoáng chốc, cậu ấy trông giống như một đứa trẻ lạc đường về. Môi cậu ấy mấp máy. Và tôi đọc được.

Cậu ấy đang gọi “Anna…”

– Nhớ về tớ đi! – Tôi mỉm cười.

Và rồi, từng mảnh, từng mảnh ký ức cứ thế quay trở lại, đến một khắc nào đó, tôi biết rằng: mọi thứ đã vẹn nguyên. Tất cả, từ những hình ảnh từ năm tôi ba tuổi chui vào nhà vệ sinh nam hòng phá bồn cầu, nhưng chưa kịp làm gì thì đã bị một trong những thằng bé ở trại bắt gặp, một thằng bé có mấy chỏm tóc xoăn trên đầu, và cho đến tận khi tôi mười bảy, cũng chính chàng trai ấy đã nắm tay tôi đến phút cuối cùng.

– Cậu thấy chưa? – Tôi giơ bàn tay mình ra trước mặt cậu ấy, cười méo xệch. Giờ đây, trông nó thật rõ ràng – Nếu cậu không nhớ, tớ sẽ chẳng là gì cả. Biến mất, thế đấy!

– Vậy… cậu chỉ là ký ức của tớ ư? – Giọng Dan run rẩy. Đôi mắt cậu ấy đỏ hoe.

– Tớ là tớ ở trong cậu – Tôi ôm lấy cậu ấy. Mái tóc xoăn kia vẫn thật mềm – Tớ luôn sống ở trong cậu, trong quá khứ, trong hiện tại, và trong tương lai của cậu, của Eric và Jane, của tất cả. Đừng cố quên, và đừng ngăn tớ…

   Tớ sẽ mãi không xa cậu…

   I will never let you go…

Dan gục đầu trên vai tôi, bật khóc.

Năm.

Đám cưới của Eric và Jane đầy hoa lily vàng. Họ mỉm cười khi ngồi trước ngôi mộ trắng, nói chuyện cùng tôi.

Còn Dan, Dan cao gầy và dịu dàng của tôi trở thành một người lính. Chiến tranh nổ ra, Tổ quốc chúng tôi bị buộc rời khỏi thế trung lập, và cậu ấy phải cầm súng chiến đấu. Trước khi ra trận, cậu ấy ghi lại tất cả tuổi thơ và thời niên thiếu của chúng tôi ra giấy, đưa cho Eric.

Ký ức của chúng tôi đã có nơi cất giữ. Để chúng tôi không rời xa nhau…

   Boy, we’re in a world war, let’s go all the way,

   Put you foot to the floor, really walk away,

   Tell me that you need me more and more everyday,

   Never let me go,

   Just stay…

 

Ngày 17.10.2013

(Đã có ai từng nói, người đã mất, chỉ sống được trong ký ức của người sống thôi…)